"Việt Nam – nhà giàu và những đứa con chưa ngoan

Tôi đang là một du học sinh Nhật, có hơn 4 năm sinh sống tại Việt Nam. Với ngần ấy thời gian, tôi đã kịp hiểu một đạo lý giản đơn của người Việt: “Sự thật mất lòng”. Song không vì thế mà tôi sẽ ngoảnh ngơ trước những điều chưa hay, chưa đẹp ở đây. Hy vọng những gì mình viết ra, không gì ngoài sự thật, như một ly cà phê ngon tặng cho mảnh đất này, tuy đắng nhưng sẽ giúp người ta thoát khỏi cơn ngủ gục - ngủ gật trước những giá trị ảo và vô tình để những giá trị thật bị mai một.

 

Tôi có một nước Nhật để tự hào

Tôi tự hào vì nơi tôi lớn lên, không có rừng vàng biển bạc. Song, “trong đêm tối nhất, người ta mới thấy được, đâu là ngôi sao sáng nhất". Thế đấy, với một xứ sở thua thiệt về mọi mặt, nghèo tài nguyên, hàng năm gánh chịu sự đe dọa của hàng trăm trận động đất lớn nhỏ lại oằn mình gánh chịu vết thương chiến tranh nặng nề, vươn lên là cách duy nhất để nhân dân Nhật tồn tại và cho cả thế giới biết “có một nước Nhật như thế”.

Tôi tự hào vì đất nước tôi không có bề dày văn hiến lâu đời nên chúng tôi sẵn sàng học hỏi và tiếp nhận tinh hoa mà các dân tộc khác “chia sẻ”. Từ trong trứng nước, mỗi đứa trẻ đã được học cách cúi chào trước người khác. Cái cúi chào ấy là đại diện cho hệ tư tưởng của cả một dân tộc biết trọng thị, khiêm nhường nhưng tự trọng cao ngời.

Tôi tự hào vì đất nước tôi được thử thách nhiều hơn bất kỳ ai. Khi thảm họa động đất sóng thần kép diễn ra, cả thế giới gần như “chấn động”. Chấn động vì giữa hoang tàn, đổ nát, đói khổ và biệt lập, người ta chỉ nhìn thấy từng dòng người kiên nhẫn xếp hàng nhận cứu trợ và cúi đầu từ tốn cảm ơn. Không có cảnh hôi của, lên giá, cướp bóc, bạo lực nào diễn ra giữa sự cùng khổ. Chỉ chưa đầy một năm sau khi hàng loạt thành phố bị xóa sổ hoàn toàn, sự sống lại bắt đầu hồi sinh như chưa từng có biến cố nào đã xảy ra. Thế đấy, không có những thành tích to lớn để nói về nước Nhật nhưng thương hiệu “made in Japan”, là thương hiệu uy tín vượt trên mọi khuôn khổ, tiêu chuẩn khắt khe, được toàn cầu tôn trọng nhất mà tôi từng biết.

  

 

Bạn cũng có một nước Việt để tự hào

Nói Việt Nam là một “nhà giàu”, quả là không ngoa. Giàu tài nguyên, giàu truyền thống, giàu văn hóa… Nhưng con cháu của nhà giàu, sẽ phải đối mặt với những vấn đề nan giải của nhà giàu. Và không phải ai cũng biết cách sống có trách nhiệm trong sự giàu có ấy.

Thật đáng tự hào nếu bạn được lớn lên ở một đất nước được thiên nhiên ưu đãi với rừng vàng biển bạc. Đáng xấu hổ nếu xem đó là khoản thừa kế kếch xù, không bao giờ cạn. Thật tiếc đó lại là những gì tôi thấy. Tại các thành phố, chỉ cần nhà mình sạch sẽ là được, ngoài phạm vi ngôi nhà, bẩn đến đâu, không ai quan tâm. Ở các nhà máy, nếu không biết dồn rác thải ở đâu, họ sẽ cho chúng ra ngoài đường, sông suối, biển cả vì đó là “tài sản quốc gia” – đã có quốc gia lo, không phải việc của mỗi người dân. Tại một đất nước mà 80% dân số sống bằng nghề nông, đất đai, nước ngầm hầu như đã bị nhiễm độc, đến nỗi, người ta nói vui trong năm nữa thôi sẽ là thời đại của ung thư vì ăn gì cũng độc, không ít thì nhiều, không thể khác. Vì sao nên nỗi?

Thật đáng tự hào vì Việt Nam có 4000 năm văn hiến. Thật xấu hổ nếu 4000 năm văn hiến chỉ là một chương trong sách lịch sử chứ không được thể hiện trong cách hành xử đời thường. Thật buồn vì đó cũng là điều tôi thấy mỗi ngày.

Hãy chỉ cho tôi thấy rằng tôi đã sai nếu nói: Người Việt không biết xếp hàng, xếp hàng chỉ dành cho học sinh tiểu học; người Việt không biết tự hào về người Việt, nếu không thì Flappy Bird đã không phải chết yểu đau đớn; người Việt chửi hay còn hơn hát, cứ xách ba lô ra tới thủ đô một chuyến thì sẽ được mục sở thị; người Việt vẫn còn luyến tiếc văn hóa làng xã, giai cấp nếu không phải thế thì họ đã không đứng thẳng người chửi đổng và cúi rạp mình trước quyền lực bất công mà chẳng dám lên tiếng; người Việt có đôi mắt siêu hạng nhất vì nhìn đâu cũng thấy cơ hội để mánh mun, lọc lừa.

Tôi chưa từng thấy đất nước nào mà các bậc mẹ cha dạy dỗ con cháu cố gắng học hành để sau này là bác sỹ, phi công, thuyền trưởng… mà xuất phát không vì đam mê mà vì phong bì nhiều, đút lót dễ, giàu sang mấy hồi… Vì đâu nên nỗi?

Người Việt có một nền di sản độc đáo, một nguồn sức mạnh vô cùng to lớn, ai cũng nhìn thấy, chỉ có người Việt là không thấy hoặc từ chối nhìn thấy. Vì sao nên nỗi?

Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt – khó lắm! Thật vậy sao?"

"Tuy đọc xong nhiều bạn chắc sẽ thấy khó chịu, nhưng thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng. Người ta nói đúng, mình mà chịu nghe chịu sửa thì mới thiệt là người giỏi người tài. Ai không chịu nổi thì cứ tưởng tượng Đôrêmon đang nói đi ha”.

Hãy ước và vẽ lên đó một mắt, khi điều ước trở thành sự thực thì hãy vẽ nốt con mắt còn lại.

Theo các nhà nghiên cứu Nhật Bản, búp bê Daruma ra đời vào giữa thời đại Edo (1603-1867). Xuất phát điểm của nó chính là những con búp bê Okiagari-Koboshi mô phỏng hình dáng của vị phật Bodhidharma (Bồ Đề Lạt Ma), người sáng lập ra Phật giáo thiền tông ở Trung Quốc. Búp bê mang tên gọi Daruma vì trong tiếng Nhật Bodhidharma được gọi là Daruma-Taishi.

Takasaki được biết đến là quê hương của búp bê Daruma. Mỗi năm, riêng tại đây có thể sản xuất ra hơn 1.700.000 con búp bê với sự làm việc miệt mài của hơn 80 thợ thủ công lành nghề. Chợ ngoài trời Daruma ở Takasaki tổ chức vào ngày 6-7/1 hàng năm được coi là dịp lễ hội lớn quy tụ đông đảo người dân Nhật cũng như du khách quốc tế. Tại chợ có khoảng 100 gian hàng bày bán búp bê phục vụ những du khách tới cầu nguyện tại đền Shorinzan “Daruma” và các quầy hàng chỉ đóng cửa vào lúc nửa đêm.

daruma may man Daruma Nhật Bản  Búp bê may mắn

Ngoài Takasaki ra, vùng Koshigaya cũng là nơi sản xuất nhiều búp bê Daruma. Các búp bê được làm ở Koshigaya lại mang tên Koshigaya-Daruma. Hàng năm có khoảng 500.000 daruma được vùng Koshiwa sản xuất ra và bày bán ở khắp nơi trên đất nước Nhật Bản.

Búp bê daruma được làm bằng kỹ thuật bồi giấy truyền thống, người ta dán nhiều lớp giấy lên khung có sẵn để tạo hình như ý muốn. Để làm ra một con búp bê, phải trải qua 16 công đoạn và tất cả đều được làm bằng tay. Chính vì vậy, mỗi con búp bê có một dáng vẻ. Trung bình một người thợ thủ công lành nghề có thể sản xuất ra hơn 10.000 con búp bê một năm.

daruma may man nhat ban Daruma Nhật Bản  Búp bê may mắn

Các Daruma khi bán chưa được tô mắt. Người mua sẽ tô một mắt của Daruma khi ước một điều gì đó và sẽ tô nốt mắt còn lại khi cầu được ước thấy.

Đến với đền Katsuo-ji ở thành phố Mino phía bắc Osaka, du khách có thể bắt gặp các daruma ở khắp mọi nơi trong đền. Sở dĩ có điều này vì những con daruma mua ở đền sẽ được chủ nhân của nó đem trở lại sau khi điều ước thành sự thật.

Daruma có nhiều màu để mọi người lựa chọn nhưng tiêu biểu và được lựa chọn nhiều hơn cả vẫn là màu đỏ truyền thống. Búp bê Daruma được người Nhật tặng nhau trong những dịp sinh nhật, dịp lễ tết hay khi một người bắt đầu những dự định mới thay cho một điều chúc tốt lành nhất dành đến họ.

Daruma Daruma Nhật Bản  Búp bê may mắn

Daruma xuất hiện ở nhiều nơi tại Nhật Bản.

Ngày nay, hình tượng búp bê daruma có thể được nhận thấy ở khắp nơi trên đất nước Nhật Bản dưới nhiều hình thái không chỉ là con búp bê truyền thống.

Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, Nhật Bản là quốc gia có tuổi thọ trung bình cao nhất trên thế giới: 82,6 tuổi. Tại sao người Nhật lại có thể sống lâu như vậy?
Tuổi thọ trung bình cao nhất thế giới của người Nhật đã kích thích sự tò mò của rất nhiều nhà nghiên cứu khoa học. Họ quyết định bắt tay nghiên cứu với mong muốn nâng cao tuổi thọ trung bình của tất cả người dân trên thế giới.
Kết quả các cuộc nghiên cứu cho thấy: chìa khóa của tuổi thọ là chất khoáng, đồ tươi và phong cách sống.
Hòn đảo Amami có những điều kiện đặc biệt liên quan đến tuổi thọ cao nhất trong Nhật. Amami bao quanh bởi đại dương và có gió rất mạnh. Hòn đảo này lại có một số ngọn núi cao ngăn gió lại, khiến cho rất nhiều chất khoáng từ biển được đưa vào không khí ở mọi vùng của hòn đảo.

Bí quyết sống lâu của người Nhật

Hòn đảo Amami có những điều kiện khác biệt liên quan đến tuổi thọ cao của người Nhật.

Không khí ở Nhật là điều các quốc gia trên thế giới khó có được. Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn có thể học hỏi “đồ tươi” và “phong cách sống” của người Nhật Bản.
Ăn đồ ăn tươi
Vào bếp của người Nhật, bạn sẽ không tìm thấy thức ăn chế biến sẵn. Họ luôn mua thức ăn tươi hàng ngày. Thói quen tự nấu nướng của phụ nữ Nhật đã giúp họ rất nhiều trong việc tránh những loại thực phẩm chứa nhiều chất béo.
Không uống rượu và không dùng các chất kích thích
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học thì cứ 100 nghìn phụ nữ Nhật mới có 6 người mắc bệnh ung thư vú, tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với các nước khác.
Lý do là vì họ có lối sống khoẻ mạnh, không uống rượu, tránh xa các chất kích thích.

Bí quyết sống lâu của người Nhật

Người Nhật Bản luôn sử dụng thức ăn tươi.

Không phải ăn kiêng, ăn vừa đủ
Người Nhật chỉ ăn no vừa đủ (không bao giờ ăn quá no, cho dù ngon miệng) và thường chỉ ăn 80% khả năng của mình.
Sống bình lặng
Họ duy trì cuộc sống của mình trong sự tĩnh lặng, không áp lực; luôn luôn lạc quan, vui vẻ, vị tha. Đó cũng là một cách để khoẻ mạnh.
Đi bộ
Người Nhật Bản có thói quen đi bộ. Mỗi buổi sáng người phụ nữ Nhật hay đi bộ ra chợ mua thức ăn tươi ngon về cho gia đình.
Tin tưởng vào cách chữa bệnh tự nhiên
Họ rất tín nhiệm cách chữa bệnh tự nhiên như bằng nước khoáng và tắm hơi. Người Nhật cũng thường dùng thức ăn để làm thuốc chữa bệnh.
Không tạo áp lực lớn cho mình
Không tranh đua, sống bình dị, không tạo áp lực lớn cho mình cũng là một cách điều hoà thần kinh, khiến cho cơ thể không bị “quá tải”.

Vị trí của người phụ nữ Nhật Bản thay đổi rất nhiều trong quá trình lịch sử. Ít nhất là trước thế kỷ 11, phụ nữ Nhật Bản luôn đóng vai trò trung tâm trong gia đình, giống như nhiều xã hội mẫu hệ. Bên cạnh đó, phụ nữ còn có ảnh hưởng đặc biệt to lớn đối với tôn giáo và chính trị. Trong thế kỷ 7 và thế kỷ 8, một vài người phụ nữ trở thành Nữ hoàng, ví dụ như các nữ hoàng Suiko, Saimei, Jito và Koken.

Vai trò của người phụ nữ Nhật


Từ thế kỷ 6 trở về sau, cùng với sự du nhập của đạo Khổng và Phật giáo, xã hội chuyển dần sang cơ cấu gia trưởng. Tuy nhiên, những phụ nữ tầng lớp thượng lưu vẫn thường là những người có học cao và có những quyền quan trọng như quyền thừa kế gia tài, cho đến khi họ bị tước mất những quyền này trong thời kỳ chuyển sang kinh tế phong kiến theo hướng phục vụ chiến tranh, bắt đầu từ thế kỷ 12. Mấy trăm năm tương đối hòa bình trong thời Edo (1600-1868) dường như càng củng cố cơ cấu gia trưởng và đẩy người phụ nữ vào vai trò phụ thuộc. Chỉ từ thời Minh Trị (1869-1912) trở đi, nhất là từ sau Thế chiến 2, khi có nhiều cơ hội công ăn việc làm cũng như giáo dục, cùng với nhiều cải thiện về pháp luật, phụ nữ Nhật Bản mới phần nào có vị trí xứng đáng.
Sau Minh Trị Duy Tân năm 1868, việc áp dụng giáo dục phổ cập vào năm 1873 có nghĩa là ngày càng nhiều trẻ em gái được đến trường, ít nhất cũng hết bậc tiểu học. Song việc giáo dục cho các em gái bị tụt hậu so với việc giáo dục cho các em trai, và chính sách của chính phủ nêu rõ rằng, nên đào tạo sao cho các em gái trở thành người nội trợ giỏi, giữ truyền thống coi phụ nữ là “những người vợ đảm và những bà mẹ thông minh”, tiếng Nhật gọi là ryosai kembo.
Một số phụ nữ cũng tham gia các cuộc đấu tranh dẫn đến Minh Trị Duy Tân, nhưng Luật Dân sự Minh Trị năm 1898 chỉ dành cho họ những quyền hạn chế như quyền li dị và quyền sở hữu tài sản, lại bắt buộc phải có sự đồng ý của người chồng trong hầu hết các vụ kiện pháp lý.
Khi Thế chiến 2 kết thúc, lực lượng chiếm đóng lấy cơ cấu dân chủ của Mỹ làm hình mẫu nên các đạo luật về phụ nữ ở Nhật Bản nói chung cũng tương tự như các đạo luật của Mỹ. Hiến pháp năm 1947 cấm phân biệt giới tính trong chính trị, kinh tế, quan hệ xã hội, đồng thời khẳng định các đạo luật được ban hành trên cơ sở bình đẳng giới tính và tôn trọng nhân phẩm của cá nhân. Luật Dân sự cũng khẳng định sự bình đẳng giữa vợ và chồng. Các tòa án gia đình can thiệp vào những vấn đề như tranh chấp tài sản và quyền nuôi con. Song thực tế, không phải các quy định trong luật luôn được thực thi nên xã hội gia trưởng của Nhật Bản vẫn là một chủ đề được nói đến rất nhiều, trong khi nước Nhật hiện đại đang chuẩn bị bước vào thiên niên kỷ mới.
Ở Nhật Bản, theo truyền thống vợ và chồng hầu như có thế giới riêng và thực tế này hiện vẫn khá phổ biến, tuy có xu hướng tiến tới quan hệ chặt chẽ và trao đổi với nhau nhiều hơn. Cuộc sống của người chồng tập trung vào công việc, dành nhiều thời gian rỗi với các đồng sự nam giới của mình trong mối quan hệ xã hội không có sự tham gia của vợ. Còn cuộc sống của người vợ tập trung vào gia đình, con cái và hàng xóm. Ở nhà, người vợ có quyền to lớn vì thường là người chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc điều hành ngân sách của gia đình và luôn quyết định về những việc liên quan đến con cái. Nói chung người vợ ở Nhật Bản không đề nghị và không trông đợi chồng giúp đỡ các công việc nhà, thậm chí ngay cả khi bản thân người vợ phải đi làm.
Trong những năm thịnh vượng vào thập kỷ 60, số cuộc kết hôn tăng mạnh. Nhưng gần đây, tuổi lập gia đình trung bình đã tăng lên. Theo số liệu năm 1997, tuổi kết hôn lần đầu trung bình của nam là 28,5 và của nữ là 26,6. Số lượng phụ nữ không lấy chồng cũng tăng lên vì trình độ học vấn cao và cơ hội nghề nghiệp đã tạo nên sự độc lập về kinh tế.
Vai trò của người phụ nữ Nhật

Số lượng nữ thanh niên học lên cao sau khi tốt nghiệp phổ thông tăng dần mỗi năm kể từ Thế chiến 2. Năm 1989, tỉ lệ nữ giới vào đại học và cao đẳng là 36,8%, lần đầu tiên vượt tỉ lệ của nam giới (35,8%). Vào năm 1997, tỉ lệ này lên tới mức kỷ lục là 46,8% trong khi tỉ lệ của nam giới giảm xuống còn 34,5%.
Kể từ khi phụ nữ Nhật Bản được quyền đi bỏ phiếu vào năm 1945, hầu như trong cuộc bầu cử nào số cử tri nữ cũng cao hơn cử tri nam giới. Tuy nhiên, đại diện của phái nữ trong cuộc sống chính trị vẫn quá ít. Năm 1950, họ chỉ có 3,4% đại diện trong lưỡng viện quốc hội. Tỉ lệ này tăng không đáng kể cho tới tận năm 1986 và vào năm 1999, tức là 52 năm sau khi có những nữ nghị sĩ đầu tiên, quốc hội cũng mới chỉ có 67 nữ thượng và hạ nghị sĩ, chiếm 8,9%. Trong chính phủ trung ương, phụ nữ nói chung chỉ nắm giữ các chức vụ cao trong các ủy ban hoặc vụ liên quan đến các vấn đề phụ nữ hoặc giáo dục. Trường hợp bà bộ trưởng bưu chính viễn thông Noda Seiko trong chính phủ của thủ tướng Obuchi là rất hiếm hoi.
Vai trò của người phụ nữ Nhật

Tỉ lệ tham gia của phụ nữ trong các ủy ban và hội đồng cố vấn quốc gia vào năm 1975 chỉ có 2,4%, đến tháng 9/1998 tăng gấp hơn 7 lần nhưng cũng mới chỉ đạt 18,3%.

Số lượng phụ nữ nắm giữ chức vụ cao trong các cơ quan chính quyền đang tăng lên, tuy còn ít ỏi. Vào tháng 12/1998, có 4 nữ thị trưởng và 9 phó tỉnh trưởng nữ. Nhật Bản cũng có 7 nữ đại sứ và 5 phụ nữ nắm giữ các chức vụ cao tại LHQ. Bà Ogata Sadako là người Nhật Bản đầu tiên được bầu làm Cao ủy LHQ phụ trách người tị nạn. Bà từng nắm giữ những chức vụ quan trọng khác như giám đốc nhân sự UNESCO, cố vấn phó tổng thư ký.

Vai trò của người phụ nữ Nhật
1. 配色 : Vải phối
2.千鳥カン止め: Bọ
3.見返し: Nẹp đỡ
4.タック: Ly
5.カフス: Măng séc
6.前カン: móc
7.ハトメ穴: Khuyết đầu tròn
8.コバ: mí
9.心地: Mex
10.縫い止め: May chặn 1
1.ステッチ: Diễu
 12.刺繍: Thêu
13.袋地: Vải lót
14.シック布: Đũng
 15.ヨーク: Cầu vai
16.ベルトループ: Đỉa  
17.芯糸: Chỉ gióng   
18.腰回り: Vòng bụng  
19.股上: Giàng trên 
20.股下: Giàng dưới
21.総丈: Tổng dài 
22.裾口巾:Rộng gấu 
23.袖丈: Dài tay 
24.裄丈: Dài tay(từ giữa lưng) 
25.表地: Vải chính
26.縫い代: Khoảng cách từ mép vải đến đường chỉ may 
28.浮き分: Đỉa chờm 
29.フラップ: Nắp túi 
30.ファスナー: Khoá
既成服 きせい áo quần may sẵn
Yシャツ áo sơ mi
カットソー áo bó
スーツ suit áo véc
チョッキ áo zile
ワンピース one piece dress áo đầm
タイトスカート váy ôm
チャック chuck phéc mơ tuya,dây kéo
ブラジャー brassiere áo nịt ngực
パンティー panties quần lót
トランクス trunks quần đùi
ブリーフ brief quần sịp
水泳パンツ すいえい quần bơi
マフラー muffler khăn choàng kín cổ
ジャージ quần áo thể thao
漂白する ひょうはく tẩy
丈 たけ vạt
毛皮 けがわ da lông thú
人工革 じんこうかわ da nhân tạo
ビロード velvet nhung
絹糸 きぬいと tơ
ナイロン nylon ni lông
レース lace đăng ten
格子模様 こうしもよう kẻ ca rô
ストライプ stripe sọc
花柄 かへい vải hoa
フィットした bó sát
色落ちする phai màu
契約書(けいやくしょ)hợp đồng
加工指示書(かこうしじしょ)đơn chỉ thị gia công hàng
注文書(ちゅうもんしょ)đơn đặt hàng
品番(ひんばん)mã hàng
品名(ひんめい)tên hàng
色番(いろばん)số màu
サイズsize
数量(すうりょう)số lượng
仕様書(しようしょ)bảng hướng dẫn kỹ thuật
サイズ表(・・・ひょう)bảng hướng dẫn kỹ thuật
型紙(かたがみ)rập giấy
元見本(もとみほん)mẫu gốc
マーカー sơ đồ cắt
パッキングリストchi tiết hàng xuất
インボイスhóa đơn
裁断台(さいだんだい)bàn cắt vải
延反機(えんたんき)mái(máng) trải vải
裁断機(さいだんき)máy cắt vải
ミシンmáy may
特殊ミシン(とくしゅ・・・)máy chuyên dụng
アイロンbàn ủi,ủi
プレスủi ép
高圧プレス(こうあつ・・・)ủi cao áp
型入れ(かたいれ)vẽ sơ đồ
要尺(ようじゃく)định mức
延反(えんたん)trải vải
裁断(さいだん)cắt
目打ち(めうち)dùi lỗ,đục lỗ
芯貼り(しんはり)ép keo
ナンバーリングđánh số
縫製(ほうせい)may
糸切り(いとぎり)cắt chỉ
検品(けんぴん)kiểm hàng
袋入れ(ふくろいれ)vào bao
梱包(こんぽう)đóng gói
製品名(せいひんめい)tên hàng,tên sản phẩm
半袖シャツ(はんそで・・・)sơmi ngắn tay
長袖シャツ(ながそで・・・)sơmi tay dài
ブルゾンáo bơ lu zong,áo chui đầu của phụ nữ
ジャンバーquần liền áo của trẻ em
ズボンquần
パンツquần
スラックスquần
カーゴパンツquần túi hộp
カーゴスラックスquần túi hộp
スモックáo nữ
ツナギáo liền quần
防寒着(ぼうかんぎ)áo mùa đông,áo ấm
生地(きじ)vải
生地品番(きじひんばん)mã số vải
生地規格(きじきかく)qui cách vải
巾(幅)(はば)khổ rộng
長さ(ながさ)chiều dài
混率(こんりつ)thành phần vải
綿%(めん・・・)cotton
ポリエステルpolyeste,sợi tổng hợp
附属(ふぞく)phụ liệu
附属台帳(ふぞくだいちょう)bảng mẫu phụ liệu
芯地(しんじ)keo,dựng
インベル芯keo lưng quần,keo cạp quần
袋地(ふくろじ)lót túi
スレーキi lót túi
裏地(うらじ)vải lót
配色生地(はいしょくきじ)vải phối màu
メッシュlót lưới
糸(いと)chỉ
衿吊り(襟吊り)(えりつり)nhãn chính
品質表示(ひんしつひょうじ)nhãn chất lượng
洗濯ネーム(せんたく・・・)nhãn giặt
サイズネームnhãn size
ワンポイントマークđiểm dấu
片布(へんふ)nhãn nẹp hoặc sườn,nhóm máu
釦(ボタン)cúc,nút
ドット釦nút đóng
スナップnút bấm
リリベットnút ri vê,nút áo chàm
前カンmóc quần
ファスナーdây kéo
ジッパーdây kéo
ゴムthun
マジックテープbăng dán,xù gai
下げ札(さげふだ)nhãn treo
吊りラベルnhãn treo
クリップkẹp nhựa
台紙bìa giấy,bìa cứng,giấy ruột sản phẩm
ポリ袋túi nilon
検針シール(けんしん・・・)nhãn đã dò kim
首廻り(くびまわり)vòng cổ
胸周り(むね・・・)vòng ngực
肩巾(かたはば)rộng vai
着丈(きたけ)dài áo
袖丈(そでたけ)dài tay
半袖丈số đo ngắn tay
長袖丈số đo dài tay
裄丈(ゆきたけ)dài tay raglan(kiểu áo dài)
裾周り(すそまわり)vòng bụng(đối với áo)
裾lai áo,lai quần
袖口巾(そでくちはば)rộng cửa tay
袖口周りvòng rộng cửa tay
アームホールvòng nách
袖ぐりvòng nách
ウエストvòng lưng,eo
腰周り(こしまわり)vòng lưng
ヒップvòng mông
尻廻り(しりまわり)vòng mông
股上(またがみ)dài đáy
股下(またした)dài thân ống từ đáy
ワタリ巾vòng đùi
裾巾lai quần
総丈(そうたけ)dài quần(từ lưng tới lai)
ファスナー丈chiều dài dây kéo
ゴム寸法(・・・すんぽう)số đo thun
許容差(きょようさ)dung sai cho phép
襟・衿(えり)cổ áo
衿腰(えりこし)chân cổ
台衿(だいえり)lá cổ
ヨークđô áo
身頃(みごろ)thân
前身頃(まえみごろ)thân trước
後身頃(うしろみごろ)thân sau
上前(うわまえ)thân trên
下前(したまえ)thân dưới
見返し(みかえし)ve(đầu nẹp trên)
前立て(まえだて)nẹp che
袖(そで)tay
半袖tay ngắn
長袖tay dài
袖口măng sét
カフスmăng sét
ポケットtúi
胸ポケットtúi ngực
脇ポケット(わき・・・)túi hông
内ポケット(うち・・・)túi trong
後ポケットtúi sau
カーゴポケットtúi hộp
ポケット口cửa túi
ノーホークli sống sau
ペンサシtúi viết
ペンポケットtúi viết
フラップnắp túi
雨ぶた(あまぶた)nắp túi
プリーツchiết li
タックli
ダーツchiết li sau
袖切り込みtrụ tay
ケンボロdiễu sườn quần
相引(あいひき)may nổi trang trí
内股(うちまた)đường may bên trong
裾折り返し(すそおりかえし)may lai
玉縁(たまふち)cơi túi
片球(かただま)cơi túi đơn
両玉(りょうだま)cơi túi đôi
腰ベルトdây lưng
ゴム押さえmay dằn thun
ベルトループcon đỉa,dây passant
シックđệm đáy
縫い代(ぬいしろ)đường may,chừa đường may
始末(しまつ)xử lí
倒し(たおし)đổ,nghiêng,bẻ
片倒し(かただおし)bẻ về 1 phía
地縫い(じぬい)may lộn
本縫い(ほんぬい)đường may thẳng bên trong bình thường
インターロックvắt sổ 5 chỉ
オーバーロックvắt sổ 3 chỉ
巻縫い(まきぬい)may cuốn ống
巻二本(まきにほん)may cuốn ống 2 kim(quần jeans)
すくい縫いvắt lai
割縫い(わりぬい)may rẽ
三巻(みつまき)xếp 3 lần và may diễu
ステッチmay diễu
ステッチ巾bề rộng may diễu
コバステッチmay mí 1 li
Wステッチdiễu đôi
釦付けđính nút,đơm cúc
釦ホールkhuy
穴かがりlỗ khuy
鳩目穴(はとめあな)khuy mắt phượng
ねむり穴khuy thẳng
カン止め(かんどめ)đính bọ
反取り(たんとり)mọi chi tiết cắt trên cùng cây vải
地の目(じのめ)sọc vải,sớ vải
芯剥離(しんはくり)tróc keo,keo dính không chắc
運針数(うんしんすう)mật độ mũi chỉ
目とび chỉ bỏ mũi
縫いはずれmay sụp mí
縫い曲がりmay không thẳng,may méo
パッカリングnhăn
返し縫(かえしぬい)lại mũi chỉ
縫い止め(ぬいどめ)cuối đường may
縫い縮み(ぬいちぢみ)độ co đường may
縫い伸び(ぬいのび)độ dãn đường may
色違い(いろちがい)khác màu
汚れ(よごれ)dơ
形態不良(けいたいふりょう)dị dạng
アイロン当たりủi bóng,cấn bóng
テカリủi bóng,cấn bóng
毛羽立ち(けばだち)xù lông,vải bị nổi bông
ヒーターthanh nhiệt bàn ủi
パイピングdây viền
裏マーベルトdây bao xung quanh trong cạp
バターン・ノッチャーkìm bấm dấu rập
パッキンyếm thuyền
パイやステープdây viền nách,viền vải cắt xéo
ハトメスlưỡi dao khuy mắt phượng
穴ボンチ替lưỡi khoan
メスウケbúa dập khuy
バックルkhoen(khóa past)
吊りdây treo
Xem thêm các bài khác

Bài viết ngẫu nhiên
Top 5 phim thần tượng Nhật Bản hút fan nhất mọi thời đại
Top 5 phim thần tượng Nhật Bản hút fan nhất mọi thời đại
Lễ hội búp bê Hina Matsuri
Lễ hội búp bê Hina Matsuri
Tắm nước lạnh, ôm tảng băng lớn để cầu may
Tắm nước lạnh, ôm tảng băng lớn để cầu may
Quán cafe cho những người thích chim cú ở Nhật
Quán cafe cho những người thích chim cú ở Nhật
Bên trong bảo tàng sex bỏ hoang của Nhật
Bên trong bảo tàng sex bỏ hoang của Nhật
Nền âm nhạc truyền thống Nhật Bản
Nền âm nhạc truyền thống Nhật Bản
Cố đô Kyoto mùa lá đỏ
Cố đô Kyoto mùa lá đỏ
6 bí quyết cho một sức khỏe tốt của người Nhật
6 bí quyết cho một sức khỏe tốt của người Nhật
Con đường tuyết ở Nhật Bản
Con đường tuyết ở Nhật Bản
Các lễ hội truyền thống Nhật Bản
Các lễ hội truyền thống Nhật Bản


Fanpage "tiếng nhật 24h"